THE ONLY FORUM FOR CLVN LOVERS
Diễn đàn dang được nâng cấp . Thân mời các bạn TV vào xem và sử dụng.
Hãy click vào Quick links phía bên trên tay trái để bắt đầu
Nếu thấy có gì xin báo cho tcgd biết để sửa chữa cho kịp thời nhen các bạn.
Cám ơn các bạn
Nữ danh ca Minh Trang từ trần, thọ 90 tuổi
Nội quy chuyên mục
THÀNH VIÊN CLVN CHÚ Ý !
1- Bài viết phải luôn luôn bỏ dấu cho dễ đọc, viết không dấu sẽ bị xóa. Xem chỉ dẫn cách bỏ dấu taị đây.
2- Không đưa nguyên link từ các nơi khác vào - Không viết toàn chữ hoa hoặc liên tục không chấm phết.
3- Ghi rõ nguồn các bài được đưa lên là bắt buộc - Tránh những lời lẽ quá khích.
4- Mỗi thành viên chỉ được dùng một nick - Không nên đưa nhiều bài lắt nhắt liên tiếp từ cùng một thành viên.
5- Đừng dùng quote (trích dẫn) để trả lời khi 2 bài liên tiếp nhau - Tránh quote nhiều lần cùng một hình ảnh.
6- Không dùng màu đỏ trừ phi đó là tựa đề của một bài mới - Nên tạo chữ ký đẹp, cân đối, dễ nhìn.
7- Thắc mắc về bài bị xoá post trên diễn đàn đều cũng sẽ bị xoá. Trực tiếp liên lạc với Ban Điều Hành nếu cần.
8- Mọi thành viên đều cùng một nhà CLVN nên việc cư xữ hoà nhã với nhau là cần thiết dù ý kiến có dị biệt.
1- Bài viết phải luôn luôn bỏ dấu cho dễ đọc, viết không dấu sẽ bị xóa. Xem chỉ dẫn cách bỏ dấu taị đây.
2- Không đưa nguyên link từ các nơi khác vào - Không viết toàn chữ hoa hoặc liên tục không chấm phết.
3- Ghi rõ nguồn các bài được đưa lên là bắt buộc - Tránh những lời lẽ quá khích.
4- Mỗi thành viên chỉ được dùng một nick - Không nên đưa nhiều bài lắt nhắt liên tiếp từ cùng một thành viên.
5- Đừng dùng quote (trích dẫn) để trả lời khi 2 bài liên tiếp nhau - Tránh quote nhiều lần cùng một hình ảnh.
6- Không dùng màu đỏ trừ phi đó là tựa đề của một bài mới - Nên tạo chữ ký đẹp, cân đối, dễ nhìn.
7- Thắc mắc về bài bị xoá post trên diễn đàn đều cũng sẽ bị xoá. Trực tiếp liên lạc với Ban Điều Hành nếu cần.
8- Mọi thành viên đều cùng một nhà CLVN nên việc cư xữ hoà nhã với nhau là cần thiết dù ý kiến có dị biệt.
-
- Thành viên kỳ cựu
- Bài viết: 6409
- Ngày tham gia: Ba T11 30, 2004 4:00 pm
- Đến từ: Virginia, USA
- Tiếp xúc:
Nữ danh ca Minh Trang từ trần, thọ 90 tuổi
WESTMINSTER (NV) - Nữ danh ca Minh Trang, một trong những tiếng hát kỳ cựu nhất của nền tân nhạc Việt Nam, từ trần lúc 11 giờ 20, ngày 17 tháng 8, 2010 (nhằm ngày 8 tháng 7, Canh Dần, Âm lịch,) tại Orange County. Linh cữu bà hiện được quàn tại Peek Family Funeral Home, thuộc thành phố Westminster.
Nữ danh ca Minh Trang tên thật là Nguyễn Thị Ngọc Trâm, Pháp danh Chơn Anh, sinh ngày 18 tháng 8, 1921 tại Bến Ngự, Huế.
Thuở nhỏ, bà học Trường Dòng, rồi Ðồng Khánh, Quốc Học, Huế.
Năm 1941, bà thành hôn với học giả Ưng Quả, giám đốc Học Chánh Trung Phần, cháu nội Tuy Lý Vương Miên Trinh, và được hai người con, là Bửu Minh và Công Tằng Tôn Nữ Ðoan Trang, tức danh ca Quỳnh Giao.
Trước khi trở thành ca sĩ, năm 1948, bà là biên tập viên kiêm xướng ngôn viên đài phát thanh Pháp Á, Sài Gòn.
Năm 1951, bà kết hôn với nhạc sĩ Dương Thiệu Tước.
Năm 1979, cùng các con, bà vượt biên tới Thái Lan. Một năm sau, bà chọn định cư tại tiểu bang Virginia. Năm 1986, bà di chuyển về quận hạt Orange County, miền Nam California.
Di ảnh cụ bà Minh Trang. (Hình: Gia đình cung cấp)
Có thể nhiều người không biết rằng, nữ danh ca Minh Trang là cháu ngoại của công chúa Mỹ Lương, tục gọi Bà Chúa Nhất, là chị ruột vua Thành Thái.
Thân phụ bà từng là tổng đốc tỉnh Bình Ðịnh, rồi Thanh Hóa.
Cuộc tình của bà với cố nhạc sĩ Dương Thiệu Tước bắt đầu từ năm 1949, mang lại cho nền tân nhạc Việt khá nhiều tình khúc bất tử. Ðiển hình như các ca khúc “Bóng Chiều Xưa,” “Ngọc Lan” v.v...
Ở cuộc hôn nhân thứ hai, với nhạc sĩ Dương Thiệu Tước, bà có một trai, bốn gái. Tất cả đều đã trưởng thành.
Nữ danh ca Minh Trang tên thật là Nguyễn Thị Ngọc Trâm, Pháp danh Chơn Anh, sinh ngày 18 tháng 8, 1921 tại Bến Ngự, Huế.
Thuở nhỏ, bà học Trường Dòng, rồi Ðồng Khánh, Quốc Học, Huế.
Năm 1941, bà thành hôn với học giả Ưng Quả, giám đốc Học Chánh Trung Phần, cháu nội Tuy Lý Vương Miên Trinh, và được hai người con, là Bửu Minh và Công Tằng Tôn Nữ Ðoan Trang, tức danh ca Quỳnh Giao.
Trước khi trở thành ca sĩ, năm 1948, bà là biên tập viên kiêm xướng ngôn viên đài phát thanh Pháp Á, Sài Gòn.
Năm 1951, bà kết hôn với nhạc sĩ Dương Thiệu Tước.
Năm 1979, cùng các con, bà vượt biên tới Thái Lan. Một năm sau, bà chọn định cư tại tiểu bang Virginia. Năm 1986, bà di chuyển về quận hạt Orange County, miền Nam California.
Di ảnh cụ bà Minh Trang. (Hình: Gia đình cung cấp)
Có thể nhiều người không biết rằng, nữ danh ca Minh Trang là cháu ngoại của công chúa Mỹ Lương, tục gọi Bà Chúa Nhất, là chị ruột vua Thành Thái.
Thân phụ bà từng là tổng đốc tỉnh Bình Ðịnh, rồi Thanh Hóa.
Cuộc tình của bà với cố nhạc sĩ Dương Thiệu Tước bắt đầu từ năm 1949, mang lại cho nền tân nhạc Việt khá nhiều tình khúc bất tử. Ðiển hình như các ca khúc “Bóng Chiều Xưa,” “Ngọc Lan” v.v...
Ở cuộc hôn nhân thứ hai, với nhạc sĩ Dương Thiệu Tước, bà có một trai, bốn gái. Tất cả đều đã trưởng thành.
- tancogiaoduyen
- Site Admin
- Bài viết: 41705
- Ngày tham gia: Hai T4 12, 2004 5:00 pm
- Đến từ: U.S.A
- Tiếp xúc:
- vanduyanh
- Thành viên tích cực
- Bài viết: 9209
- Ngày tham gia: Hai T2 22, 2010 12:05 am
Tuần rồi, Ca sĩ Quỳnh Giao đã dùng tựa đề bài tạp ghi là “Phút Say Hương.” Ðó là mượn tên một ca khúc của Dương Thiệu Tước (là kế phụ của người viết) sáng tác cách đây gần 60 năm...
Mấy tháng vừa qua, cùng với mấy cô em, người viết chạy qua chạy lại như chong chóng giữa mấy nhà thương và nơi an dưỡng của mẫu thân để thăm nom cụ đã đến tuổi gần chín chục. Dù thân thể yếu ớt kiệt quệ, tinh thần của cụ vẫn minh mẫn tỉnh táo đến lạ thường. Không quên tên một người nào cả, từ họ hàng cho đến bằng hữu. Nào là Châu Hà, Kim Tước, Mai Hương, Kiều Chinh, cụ đều nhắc kỷ niệm thật chính xác. Cả đến người cụ chỉ thỉnh thoảng gặp gỡ cũng nhận ra tức khắc, như trường hợp anh Huy Phương đến nhà thương thăm cụ. Hôm ấy vì ngờ cụ bị cúm H1N1, nhà thương bắt buộc mọi người phải bịt kín mặt khi vào thăm. Nhác thấy anh, mặt nạ che chỉ còn hai con mắt, cụ reo lên: “Ồ, anh Huy Phương, anh đến thăm, tôi vui mừng lắm!” Cụ tỉnh táo nhận ra những người mấy chục năm mới gặp như cô Tâm Vấn, làm cô không cầm được nước mắt. Thấy Nhã Ca và Trần Dạ Từ đến bên giường thăm hỏi, cụ gọi đích danh tên thật của cô Nhã - “Thu Vân đây này!” và bảo rằng “Trần Dạ Từ này, chị coi như em ruột từ mấy chục năm về trước.”
Mấy chục năm về trước, phụ nữ chưa được đi học đông đảo như thời sau. Ðàn bà mà đỗ đến Tú Tài thì đã được coi là “hiếm có lắm.” Trong đài phát thanh, cụ viết và đọc tin bằng tiếng Pháp nên ai cũng cho là giỏi. Ðã vậy, khi một ca sĩ bị đau bất ngờ, ông Giám Ðốc Hoàng Cao Tăng của đài Pháp Á nhờ cụ hát thay, cụ hát ngay, đúng ton, trúng nhịp vì đã học piano và nhạc lý vững vàng. Rồi nổi danh như cồn nhờ tiếng hát! Nhưng, những người đã biết danh ca Minh Trang từ trước thì đều biết rằng đấy là một xướng ngôn viên và biên tập viên thuộc loại “văn võ toàn tài,” Pháp Việt gì thì cũng làu thông! Ðấy là chuyện của hơn nửa thế kỷ về trước. Mà giờ này thần trí của cụ còn nhớ hết khi thân thể đã như ngọn bấc đang cạn dầu...
Vì nghĩ đến mẹ mình suốt ngày nên vô tình tựa đề của bài tạp ghi về nước hoa kỳ trước dùng bài hát liên quan đến cụ. Mà cũng chính cụ đã mở con đường thơm tho cho mình khi tuổi còn thơ, khi mình ngồi ngắm mẹ sửa soạn trước gương, chải mái tóc, và bôi nước hoa vào sau vành tai trước khi đi ra ngoài.
Khi mẫu thân Quỳnh Giao gặp gỡ nhạc sĩ Dương Thiệu Tước, bà đã nổi danh như cồn với giọng ca điêu luyện. Lúc ấy là một góa phụ trẻ đẹp, nghệ danh là tên ghép của hai đứa con: Minh (Bửu Minh) Trang (Ðoan Trang, tên thật của người viết). Nói là hai người gặp nhau, nhưng cũng chỉ mới “gặp” trên làn sóng âm thanh mà thôi. “Văn kỳ thanh bất kiến kỳ hình” mà! Người nhạc sĩ tài hoa đã mê giọng hát và tương tư hình ảnh qua bức ảnh in trên bìa bài hát, nên soạn ra bài “Sóng Lòng,” nhịp Slow chậm rãi, trên cung Ré Trưởng với những lời lẽ sau:
Vắng người ta ước mơ
Khiến lòng bao ngẩn ngơ
Bến đời u ám như mây mờ
Cách trùng dương núi sông
Cánh hồng say ngóng trông
Biết ngày nào thấy nhau, hoài mong...
Trên án thư kìa hình ai tươi nét mơ,
mắt thu huyền dịu dàng bao ý thơ.
Tiếng ca u hoài ôi lâm ly từ đâu tới đây
Trên làn sóng âm thanh như đắm say hồn mơ...
Thời kỳ theo đuổi này, người nhạc sĩ hàng đầu của nền tân nhạc phôi thai còn soạn thêm những bài như “Buồn Xa Vắng” nhịp luân vũ chậm (valse lente) trên cung Sol Trưởng, cũng là âm giai thích hợp với chất giọng của bà nhất vì xuống nốt Sol trầm và lên cao là nốt Fa, không quá thấp mà cũng không quá cao, vừa vặn với thang âm (échelle) của bà. Ca khúc này được bà yêu thích nhất với lời từ đầy nỗi nhớ nhung.
Buồn ơi xa vắng, cung huyền réo rắt
Mênh mông sầu
Hồn mộng bâng khuâng, tơ trùng rung phím
suốt đêm thâu
Tàn canh thao thức, mây sầu theo gió
tới phương nao
Nhớ ai đàn ơi, u hoài
Khúc nhạc ly tao...
Nhưng độc đáo nhất vẫn là “Ngọc Lan” mà ai cũng biết:
Ngọc Lan giọng ướp men thơ
Mát êm làn lụa bóng là
Ngọc Lan trầm ngát thu hương
Bờ xanh bóng dương phút giây chìm sương...
Khi đã chung sống, hai người viết những ca khúc đầy yêu đương tình tứ như “Phút Say Hương.” Bài hát này có tiết điệu vui, lời ca thi vị:
Nhớ những phút vui đêm thâu thả hồn mơ
Nhìn mây gió tới đâu.
Nhớ những phút vui bên nhau tìm hồn hoa
Nhìn trăng khuất non xa
Nhớ những phút vui canh thâu nhạc vàng êm
Hòa đêm trắng bên nhau...
Thời kỳ này có ba bài hát do Minh Trang làm lời trên giai điệu của Dương Thiệu Tước. Ðó là “Ôi Quê Xưa,” “Bóng Chiều Xưa” và “Vui Xuân.” Nếu nghe cho kỹ thì lời ca của hai bài đầu vẫn còn là niềm luyến nhớ cảnh xưa, và người xưa đã khuất.
Hãy nhớ lại “Ôi Quê Xưa” với nhịp Habanera tha thiết:
Rồi một chiều xưa,
tôi về cố hương
Nhìn cảnh làng xưa,
vết hoang tàn đìu hiu gió sương
Nhìn xóm nhà vắng thưa,
nhớ chốn đây năm nào
Chiều chiều hai người hẹn nhau
đến bên nhịp cầu...
Tối tối quây quần mơ đón trăng lên vui lời trao duyên
Hôm nay chốn đây thôn làng quạnh hiu , người vắng xa...
Và tác phẩm “Bóng Chiều Xưa” bất hủ theo nhịp slow habanera. Sau này, một số ca sĩ đổi thành nhịp tango làm mất nhiều tình cảm nhẹ nhàng đằm thắm của lời từ lãng mạn. Vào thời ấy mà viết lời đầy ắp nỗi nhớ nhung chốn cũ người xưa, mình thấy lạ, và hãy cùng nghe lại để hiểu ra tâm tư của người nghệ sĩ:
Một chiều gió mưa em về thăm chốn xưa
Non nước u buồn nào đâu bóng cố nhân
Lòng xót xa tình xưa...
Lâng lâng chiều mơ,
một chiều bâng khuâng đâu nguồn thơ
Mây vương sầu lan, gió ơi đưa hồn về làng cũ
Nhắn thầm lời nguyền ước trong chiều xưa...
Với con cái, bà mẹ không bao giờ giờ cắt nghĩa hay giải thích lời ca cụ đã viết. Nhưng khi hát lên với sự trân trọng, làm con thì tự nhiên mình thấu hiểu được nỗi niềm của mẹ. Càng hát lại, ngẫm lại, Quỳnh Giao càng thương yêu mẹ và tiếc thương cho người cha tài hoa bạc mệnh, qua đời lúc mới 46 tuổi, khi con bé mới lên năm...
Mỗi ngày vào ngồi bên mẹ, người viết luôn nói cho bà biết bằng ánh mắt của mình. Rằng “con thương mẹ lắm,” và mẹ tôi nhìn tôi với ánh mắt biết cười: “Mẹ thấy mình hạnh phúc và mãn nguyện rồi...”
Mấy tháng vừa qua, cùng với mấy cô em, người viết chạy qua chạy lại như chong chóng giữa mấy nhà thương và nơi an dưỡng của mẫu thân để thăm nom cụ đã đến tuổi gần chín chục. Dù thân thể yếu ớt kiệt quệ, tinh thần của cụ vẫn minh mẫn tỉnh táo đến lạ thường. Không quên tên một người nào cả, từ họ hàng cho đến bằng hữu. Nào là Châu Hà, Kim Tước, Mai Hương, Kiều Chinh, cụ đều nhắc kỷ niệm thật chính xác. Cả đến người cụ chỉ thỉnh thoảng gặp gỡ cũng nhận ra tức khắc, như trường hợp anh Huy Phương đến nhà thương thăm cụ. Hôm ấy vì ngờ cụ bị cúm H1N1, nhà thương bắt buộc mọi người phải bịt kín mặt khi vào thăm. Nhác thấy anh, mặt nạ che chỉ còn hai con mắt, cụ reo lên: “Ồ, anh Huy Phương, anh đến thăm, tôi vui mừng lắm!” Cụ tỉnh táo nhận ra những người mấy chục năm mới gặp như cô Tâm Vấn, làm cô không cầm được nước mắt. Thấy Nhã Ca và Trần Dạ Từ đến bên giường thăm hỏi, cụ gọi đích danh tên thật của cô Nhã - “Thu Vân đây này!” và bảo rằng “Trần Dạ Từ này, chị coi như em ruột từ mấy chục năm về trước.”
Mấy chục năm về trước, phụ nữ chưa được đi học đông đảo như thời sau. Ðàn bà mà đỗ đến Tú Tài thì đã được coi là “hiếm có lắm.” Trong đài phát thanh, cụ viết và đọc tin bằng tiếng Pháp nên ai cũng cho là giỏi. Ðã vậy, khi một ca sĩ bị đau bất ngờ, ông Giám Ðốc Hoàng Cao Tăng của đài Pháp Á nhờ cụ hát thay, cụ hát ngay, đúng ton, trúng nhịp vì đã học piano và nhạc lý vững vàng. Rồi nổi danh như cồn nhờ tiếng hát! Nhưng, những người đã biết danh ca Minh Trang từ trước thì đều biết rằng đấy là một xướng ngôn viên và biên tập viên thuộc loại “văn võ toàn tài,” Pháp Việt gì thì cũng làu thông! Ðấy là chuyện của hơn nửa thế kỷ về trước. Mà giờ này thần trí của cụ còn nhớ hết khi thân thể đã như ngọn bấc đang cạn dầu...
Vì nghĩ đến mẹ mình suốt ngày nên vô tình tựa đề của bài tạp ghi về nước hoa kỳ trước dùng bài hát liên quan đến cụ. Mà cũng chính cụ đã mở con đường thơm tho cho mình khi tuổi còn thơ, khi mình ngồi ngắm mẹ sửa soạn trước gương, chải mái tóc, và bôi nước hoa vào sau vành tai trước khi đi ra ngoài.
Khi mẫu thân Quỳnh Giao gặp gỡ nhạc sĩ Dương Thiệu Tước, bà đã nổi danh như cồn với giọng ca điêu luyện. Lúc ấy là một góa phụ trẻ đẹp, nghệ danh là tên ghép của hai đứa con: Minh (Bửu Minh) Trang (Ðoan Trang, tên thật của người viết). Nói là hai người gặp nhau, nhưng cũng chỉ mới “gặp” trên làn sóng âm thanh mà thôi. “Văn kỳ thanh bất kiến kỳ hình” mà! Người nhạc sĩ tài hoa đã mê giọng hát và tương tư hình ảnh qua bức ảnh in trên bìa bài hát, nên soạn ra bài “Sóng Lòng,” nhịp Slow chậm rãi, trên cung Ré Trưởng với những lời lẽ sau:
Vắng người ta ước mơ
Khiến lòng bao ngẩn ngơ
Bến đời u ám như mây mờ
Cách trùng dương núi sông
Cánh hồng say ngóng trông
Biết ngày nào thấy nhau, hoài mong...
Trên án thư kìa hình ai tươi nét mơ,
mắt thu huyền dịu dàng bao ý thơ.
Tiếng ca u hoài ôi lâm ly từ đâu tới đây
Trên làn sóng âm thanh như đắm say hồn mơ...
Thời kỳ theo đuổi này, người nhạc sĩ hàng đầu của nền tân nhạc phôi thai còn soạn thêm những bài như “Buồn Xa Vắng” nhịp luân vũ chậm (valse lente) trên cung Sol Trưởng, cũng là âm giai thích hợp với chất giọng của bà nhất vì xuống nốt Sol trầm và lên cao là nốt Fa, không quá thấp mà cũng không quá cao, vừa vặn với thang âm (échelle) của bà. Ca khúc này được bà yêu thích nhất với lời từ đầy nỗi nhớ nhung.
Buồn ơi xa vắng, cung huyền réo rắt
Mênh mông sầu
Hồn mộng bâng khuâng, tơ trùng rung phím
suốt đêm thâu
Tàn canh thao thức, mây sầu theo gió
tới phương nao
Nhớ ai đàn ơi, u hoài
Khúc nhạc ly tao...
Nhưng độc đáo nhất vẫn là “Ngọc Lan” mà ai cũng biết:
Ngọc Lan giọng ướp men thơ
Mát êm làn lụa bóng là
Ngọc Lan trầm ngát thu hương
Bờ xanh bóng dương phút giây chìm sương...
Khi đã chung sống, hai người viết những ca khúc đầy yêu đương tình tứ như “Phút Say Hương.” Bài hát này có tiết điệu vui, lời ca thi vị:
Nhớ những phút vui đêm thâu thả hồn mơ
Nhìn mây gió tới đâu.
Nhớ những phút vui bên nhau tìm hồn hoa
Nhìn trăng khuất non xa
Nhớ những phút vui canh thâu nhạc vàng êm
Hòa đêm trắng bên nhau...
Thời kỳ này có ba bài hát do Minh Trang làm lời trên giai điệu của Dương Thiệu Tước. Ðó là “Ôi Quê Xưa,” “Bóng Chiều Xưa” và “Vui Xuân.” Nếu nghe cho kỹ thì lời ca của hai bài đầu vẫn còn là niềm luyến nhớ cảnh xưa, và người xưa đã khuất.
Hãy nhớ lại “Ôi Quê Xưa” với nhịp Habanera tha thiết:
Rồi một chiều xưa,
tôi về cố hương
Nhìn cảnh làng xưa,
vết hoang tàn đìu hiu gió sương
Nhìn xóm nhà vắng thưa,
nhớ chốn đây năm nào
Chiều chiều hai người hẹn nhau
đến bên nhịp cầu...
Tối tối quây quần mơ đón trăng lên vui lời trao duyên
Hôm nay chốn đây thôn làng quạnh hiu , người vắng xa...
Và tác phẩm “Bóng Chiều Xưa” bất hủ theo nhịp slow habanera. Sau này, một số ca sĩ đổi thành nhịp tango làm mất nhiều tình cảm nhẹ nhàng đằm thắm của lời từ lãng mạn. Vào thời ấy mà viết lời đầy ắp nỗi nhớ nhung chốn cũ người xưa, mình thấy lạ, và hãy cùng nghe lại để hiểu ra tâm tư của người nghệ sĩ:
Một chiều gió mưa em về thăm chốn xưa
Non nước u buồn nào đâu bóng cố nhân
Lòng xót xa tình xưa...
Lâng lâng chiều mơ,
một chiều bâng khuâng đâu nguồn thơ
Mây vương sầu lan, gió ơi đưa hồn về làng cũ
Nhắn thầm lời nguyền ước trong chiều xưa...
Với con cái, bà mẹ không bao giờ giờ cắt nghĩa hay giải thích lời ca cụ đã viết. Nhưng khi hát lên với sự trân trọng, làm con thì tự nhiên mình thấu hiểu được nỗi niềm của mẹ. Càng hát lại, ngẫm lại, Quỳnh Giao càng thương yêu mẹ và tiếc thương cho người cha tài hoa bạc mệnh, qua đời lúc mới 46 tuổi, khi con bé mới lên năm...
Mỗi ngày vào ngồi bên mẹ, người viết luôn nói cho bà biết bằng ánh mắt của mình. Rằng “con thương mẹ lắm,” và mẹ tôi nhìn tôi với ánh mắt biết cười: “Mẹ thấy mình hạnh phúc và mãn nguyện rồi...”
- vanduyanh
- Thành viên tích cực
- Bài viết: 9209
- Ngày tham gia: Hai T2 22, 2010 12:05 am
Ca sĩ Minh Trang
Huy Phong
Như một định mệnh, cô bé Nguyễn thị Ngọc Trâm chào đời ngày 18 tháng 8 năm 1921 tại một nhà hộ sinh nằm ngay trên Bến Ngự, thành phố Huế. Hai mươi lăm năm sau, một khúc hát bất hủ mang tên "Đêm Tàn Bến Ngự" ra đời, được viết nên bởi một nhạc sĩ tài hoa, đã gắn liền với tên cô , ngày nay đã trở thành một danh ca mang tên Minh Trang. Tác giả bản nhạc đó là Dương Thiệu Tước, cũng là người chồng sau này của cô, cả hai đã tạo nên một gia đình âm nhạc và để lại cho thế gian những tình khúc bất tử.
Ở Huế vào cuối thế kỷ 19, người ta biết nhiều tới Mỹ Lương Công Chúa hay Bà Chúa Nhứt, là chị ruột của Vua Thành Thái. Bà là người giòng giõi nhưng không câu nệ, tính rất nghệ sĩ. Trong nhà bà Chúa có nuôi hẳn mộät ban hát tới mấy chục người và có riêng một ban ca Huế. Vị công chúa đóù là bà ngoại của ca sĩ Minh Trang, do đó khi lớn lên, vì thân phụ là cụ Nguyễn Hy nhiều khi phải đáo nhậm những nhiệm sở xa, bà Minh Trang có dịp được gần gũi với bên ngoại. Nhờ những âm thanh ca Huế thấm nhuần vào tâm hồn trong tuổi ấu thơ, mới bảy tám tuôåi, bà đã thuộc những bài cổ nhạc, ca Huế như những khúc Nam Ai, Nam Bình, Kim Tiền, Lưu Thủy...Tuy nói giọng Quảng vì thân phụ bà là gốc người Quảng Ngãi, chất Huế trong người bà đã khiến cho bà hát bản "Đêm Tàn Bến Ngự" một cách dễ dàng như chính tác giả đã viết bài này ra để dành riêng cho cho bà, người ca sĩ, đó là Minh Trang.
Lớn lên trong khung cảnh của một danh gia vọng tộc một thời ở đất thần kinh, cũng như những gia đình khác có lẽ tân nhạc vẫn còn là một điều gì mới mẻ, tuy vậy bà Minh Trang là người sớm hấp thụ nền văn hóa tây phương. Lúc nhỏ bà theo học trường Jeanne d' Arc, một trường giòng danh tiếng ở Huế và đã bắt đầu làm quen với những phím dương cầm từ đó. Lên trung học, bà theo gia đình ra Hà Nội. Vào khoảng 1941, thân phụ bà về nhậm chức tại Bộ Lại (tức là bộ Nội Vụ) tại Huế, bà lại theo về học tại Lycée Khải Định. Tại đây bà gặp một ông thầy dạy Việt Văn là ông Ưng Quả, cũng là vị "phụ giáo" của triều đình Huế (dạy thái tử Bảo Long). Hai người, một thầy, một trò đã tỏ ra tâm đầu ý hợp và tiến đến hôn nhân. Tuy lúc đó Thầy Ưng Quả là một người đàn ông góa vợ đã có hai con trai, nhưng cả hai gia đình đều là những gia đình quyền quí ở Huế, thầy Ưng Quả là cháu nội của Tuy Lý Vương, bà Minh Trang là cháu nội của Diên Lộc Quận Công, phải nói là rất "môn đăng hộ đối". Hai người sinh hạ được một trai là Bửu Minh và một gái là Công Tằng Tôn Nữ Đoan Trang, (tức là ca sĩ Quỳnh Giao). Bà dùng tên của hai người con ghép lại để làm nên cái tên âm nhạc cho mình.
Năm 1951, giáo sư Ưng Quả, lúc đó là Giám Đốc Nha Học Chính Trung Phần qua đời, bà Minh Trang đem hai con vào Saigon, và kiếm được một việc làm tại Đài Phát Thanh Pháp Á (France-Asie), vừa là xướng ngôn viên vừa làm biên tập tin tức bằng tiếng Pháp. Sự việc Minh Trang trở thành ca sĩ cũng là chuyện tình cờ không tính trước, trong chương trình ca nhạc của nhạc sĩ Đức Quỳnh, vì ca sĩ chính không đến đài hát được, bà phải miễn cưỡng thay chỗ, và ca khúc duy nhất bà thuộc lúc ấy là "Đêm Đông" của NS Nguyễn Văn Thương. Nhờ giọng hát thiên bẩm (trời cho)- theo bà nói- từ đó gần như bà trở thành một ca sĩ chuyên nghiệp, ngoài chuyện bà là ca sĩ chính của Đài Pháp Á, về sau trở thành Đài Phát Thanh Quốc Gia, bà Minh Trang còn đi hát "phụ diễn" trên sân khấu, một lối trình diễn rất thịnh hành hồi ấy tại các rạp chớp bóng trước khi cuốn phim chính được trình chiếu.Tiếng hát của bà bay ra Hà Nội và được các nhạc sĩ đương thời ngoài đó rất yêu mến, thường gởi bài vào cho bà hát như các nhạc sĩ Vũ Thành, Dương Thiệu Tước, Nguyễn Văn Khánh, Hoàng Giác, Thẩm Oánh, Thiện Tơ... Trong một lần ra Hà Nội theo lời mời của Thủ Hiến Bắc Việt Nguyễn Hữu Trí khi ông này tổ chức Hội Chợ, bà đã hát trong ban Việt Nhạc và gặp gỡ nhạc sĩ Dương Thiệu Tước tại đây.
Hai người nghệ sĩ này, Minh Trang - Dương Thiệu Tước kết hôn năm 1951 tại Saigon và sau đó sinh hạ được năm người con, một trai Dương Hồng Phong và bốn gái Vân Quỳnh, Vân Khanh, Vân Hòa, Vân Dung. Cũng như Bửu Minh và Đoan Trang, các con của Ông Bà đều được theo học trường Quốc Gia Âm Nhạc với sự dìu dắt của nhạc sĩ Dương Thiệu Tước. Ngày nay Quỳnh Giao, Vân Quỳnh đã trở thành ca sĩ. Dương Hồng Phong tốt nghiệp vĩ cầm tại QGAN và Bửu Minh du học Pháp năm 1961 nay là dương cầm thủ chính (đệ nhất vĩ cầm) trong ban nhạc đại hòa tấu "Staatsphihlarmonic Rheinland Plalz" của Đức Quốc.
Sau biến cố tháng 4-1975, các cô con gái đã lập gia đình đều đã ra đi, nhưng ông bà Dương Thiệu Tước còn ở lại Việt Nam, lý do là con trai duy nhất của hai người, Dương Hồng Phong, động viên năm 1972 đang bị kẹt tại Chu Lai và bị bắt làm tù binh. Với số lương 64 đồng một tháng dành cho giáo sư Dương Thiệu Tước dạy lục huyền cầm cổ điển, hai ông bà phải sống trong những điều kiện vô cùng chật vật. Bà Minh Trang kể lại suốt trong những ngày đen tối, công việc của bà là ngồi lượm sạn và bông lúa để lo bữa cơm cho chồng con, trong khi đứa con trai tù tội vẫn chưa về. Năm 1978 khi Dương Hồng Phong ra tù, bà nghĩ đến việc phải rời đất nước. Nhạc sĩ Dương Thiệu Tước vì thường đau ốm nên không muốn đi. Bà Minh Trang cùng ba con đến Thái Lan vào cuối năm 1979, và đi định cư tại Virginia. Ở đây bà làm nghề "quality control" cho một hãng microfilm và ngay cả làm "baybysitter" trong một gia đình người Pháp.
Năm 1986, bà theo con về cư ngụ tại Quận Cam vì bà đã chán cái cảnh cào tuyết những ngày mùa đông ở Virginia, cũng là lúc bà bước vào tuổi hưu trí. Ở đây bà cảm thấy sức khỏe tốt hơn, và vui với các cháu ngoại ở quanh quẩn trong vùng, tuy bà vẫn còn hai người con trai ở xa, Bửu Minh tận Đức Quốc và Dương Hồng Phong ở New York.
Ngày nay bà Minh Trang sống trong một căn apartment dành cho người cao niên rất yên tĩnh. Thú vui của bà là nghe nhạc và nhất là bà rất chịu khó theo dõi tin tức thời sự. Bà tâm sự rằng ít khi bà nấu nướng, vì các con gái bà đều ở gần có bát canh cần nó cũng mang cho. Thỉnh thoảng các con ghé lại chở mẹ đi thăm người quen hoặc ghé qua chợ mua một vài thứ lặt vặt. Bà thích sống một mình như thế đã hơn sáu năm qua mà không cảm thấy cô đơn, vì các con rất gần gũi với bà. Trong lúc ngồi tiếp chuyện tôi, bà trả lời điện thoại của những người con gái gọi lại hai lần. Bà tâm sự, bây giờ con cái đều bận bịu công việc, khó có thể quanh quẩn bên mình, ở căn cư xá này rất tiện, mỗi khi có ốm đau hay cần chuyện cấp cứu bà chỉ kéo nhẹ đầu giây báo động, là có nhân viên y tế đến giúp ngay.
Trên bàn thờ nhỏ ở phòng khách là hình ảnh những người đã quá vãng, trên vách tường là những hình ảnh của của người sống. Đó là thế giới của bà, thế giới của hồi tưởng, của kỷ niệm hay thế giới ấm áp của con cháu đang vây quanh tuổi già của bà. Năm nay bà Minh Trang đã tới tuổi 84, trông bà hãy còn tráng kiện, tóc phơ phơ bạc, trí nhớ còn rất minh mẫn. Huế còn nhớ tới Minh Trang tên tuổi một thời, thính giả đài Pháp Á không quên tên người ca sĩ này, cái tên Minh Trang hình như gắn liền với âm điệu của một làn dân ca Huế, nỉ non và cũng ai oán trong "Đêm Tàn Bến Ngự" cũng như với cái tên Dương Thiệu Tước. Cuộc đời sinh ra bà để chúng ta có những tình khúc dịu dàng, thơm tho như một khu vườn Huế những đêm trăng, đó là "Ngọc Lan", là "Sóng Lòng"....
Huy Phong
Như một định mệnh, cô bé Nguyễn thị Ngọc Trâm chào đời ngày 18 tháng 8 năm 1921 tại một nhà hộ sinh nằm ngay trên Bến Ngự, thành phố Huế. Hai mươi lăm năm sau, một khúc hát bất hủ mang tên "Đêm Tàn Bến Ngự" ra đời, được viết nên bởi một nhạc sĩ tài hoa, đã gắn liền với tên cô , ngày nay đã trở thành một danh ca mang tên Minh Trang. Tác giả bản nhạc đó là Dương Thiệu Tước, cũng là người chồng sau này của cô, cả hai đã tạo nên một gia đình âm nhạc và để lại cho thế gian những tình khúc bất tử.
Ở Huế vào cuối thế kỷ 19, người ta biết nhiều tới Mỹ Lương Công Chúa hay Bà Chúa Nhứt, là chị ruột của Vua Thành Thái. Bà là người giòng giõi nhưng không câu nệ, tính rất nghệ sĩ. Trong nhà bà Chúa có nuôi hẳn mộät ban hát tới mấy chục người và có riêng một ban ca Huế. Vị công chúa đóù là bà ngoại của ca sĩ Minh Trang, do đó khi lớn lên, vì thân phụ là cụ Nguyễn Hy nhiều khi phải đáo nhậm những nhiệm sở xa, bà Minh Trang có dịp được gần gũi với bên ngoại. Nhờ những âm thanh ca Huế thấm nhuần vào tâm hồn trong tuổi ấu thơ, mới bảy tám tuôåi, bà đã thuộc những bài cổ nhạc, ca Huế như những khúc Nam Ai, Nam Bình, Kim Tiền, Lưu Thủy...Tuy nói giọng Quảng vì thân phụ bà là gốc người Quảng Ngãi, chất Huế trong người bà đã khiến cho bà hát bản "Đêm Tàn Bến Ngự" một cách dễ dàng như chính tác giả đã viết bài này ra để dành riêng cho cho bà, người ca sĩ, đó là Minh Trang.
Lớn lên trong khung cảnh của một danh gia vọng tộc một thời ở đất thần kinh, cũng như những gia đình khác có lẽ tân nhạc vẫn còn là một điều gì mới mẻ, tuy vậy bà Minh Trang là người sớm hấp thụ nền văn hóa tây phương. Lúc nhỏ bà theo học trường Jeanne d' Arc, một trường giòng danh tiếng ở Huế và đã bắt đầu làm quen với những phím dương cầm từ đó. Lên trung học, bà theo gia đình ra Hà Nội. Vào khoảng 1941, thân phụ bà về nhậm chức tại Bộ Lại (tức là bộ Nội Vụ) tại Huế, bà lại theo về học tại Lycée Khải Định. Tại đây bà gặp một ông thầy dạy Việt Văn là ông Ưng Quả, cũng là vị "phụ giáo" của triều đình Huế (dạy thái tử Bảo Long). Hai người, một thầy, một trò đã tỏ ra tâm đầu ý hợp và tiến đến hôn nhân. Tuy lúc đó Thầy Ưng Quả là một người đàn ông góa vợ đã có hai con trai, nhưng cả hai gia đình đều là những gia đình quyền quí ở Huế, thầy Ưng Quả là cháu nội của Tuy Lý Vương, bà Minh Trang là cháu nội của Diên Lộc Quận Công, phải nói là rất "môn đăng hộ đối". Hai người sinh hạ được một trai là Bửu Minh và một gái là Công Tằng Tôn Nữ Đoan Trang, (tức là ca sĩ Quỳnh Giao). Bà dùng tên của hai người con ghép lại để làm nên cái tên âm nhạc cho mình.
Năm 1951, giáo sư Ưng Quả, lúc đó là Giám Đốc Nha Học Chính Trung Phần qua đời, bà Minh Trang đem hai con vào Saigon, và kiếm được một việc làm tại Đài Phát Thanh Pháp Á (France-Asie), vừa là xướng ngôn viên vừa làm biên tập tin tức bằng tiếng Pháp. Sự việc Minh Trang trở thành ca sĩ cũng là chuyện tình cờ không tính trước, trong chương trình ca nhạc của nhạc sĩ Đức Quỳnh, vì ca sĩ chính không đến đài hát được, bà phải miễn cưỡng thay chỗ, và ca khúc duy nhất bà thuộc lúc ấy là "Đêm Đông" của NS Nguyễn Văn Thương. Nhờ giọng hát thiên bẩm (trời cho)- theo bà nói- từ đó gần như bà trở thành một ca sĩ chuyên nghiệp, ngoài chuyện bà là ca sĩ chính của Đài Pháp Á, về sau trở thành Đài Phát Thanh Quốc Gia, bà Minh Trang còn đi hát "phụ diễn" trên sân khấu, một lối trình diễn rất thịnh hành hồi ấy tại các rạp chớp bóng trước khi cuốn phim chính được trình chiếu.Tiếng hát của bà bay ra Hà Nội và được các nhạc sĩ đương thời ngoài đó rất yêu mến, thường gởi bài vào cho bà hát như các nhạc sĩ Vũ Thành, Dương Thiệu Tước, Nguyễn Văn Khánh, Hoàng Giác, Thẩm Oánh, Thiện Tơ... Trong một lần ra Hà Nội theo lời mời của Thủ Hiến Bắc Việt Nguyễn Hữu Trí khi ông này tổ chức Hội Chợ, bà đã hát trong ban Việt Nhạc và gặp gỡ nhạc sĩ Dương Thiệu Tước tại đây.
Hai người nghệ sĩ này, Minh Trang - Dương Thiệu Tước kết hôn năm 1951 tại Saigon và sau đó sinh hạ được năm người con, một trai Dương Hồng Phong và bốn gái Vân Quỳnh, Vân Khanh, Vân Hòa, Vân Dung. Cũng như Bửu Minh và Đoan Trang, các con của Ông Bà đều được theo học trường Quốc Gia Âm Nhạc với sự dìu dắt của nhạc sĩ Dương Thiệu Tước. Ngày nay Quỳnh Giao, Vân Quỳnh đã trở thành ca sĩ. Dương Hồng Phong tốt nghiệp vĩ cầm tại QGAN và Bửu Minh du học Pháp năm 1961 nay là dương cầm thủ chính (đệ nhất vĩ cầm) trong ban nhạc đại hòa tấu "Staatsphihlarmonic Rheinland Plalz" của Đức Quốc.
Sau biến cố tháng 4-1975, các cô con gái đã lập gia đình đều đã ra đi, nhưng ông bà Dương Thiệu Tước còn ở lại Việt Nam, lý do là con trai duy nhất của hai người, Dương Hồng Phong, động viên năm 1972 đang bị kẹt tại Chu Lai và bị bắt làm tù binh. Với số lương 64 đồng một tháng dành cho giáo sư Dương Thiệu Tước dạy lục huyền cầm cổ điển, hai ông bà phải sống trong những điều kiện vô cùng chật vật. Bà Minh Trang kể lại suốt trong những ngày đen tối, công việc của bà là ngồi lượm sạn và bông lúa để lo bữa cơm cho chồng con, trong khi đứa con trai tù tội vẫn chưa về. Năm 1978 khi Dương Hồng Phong ra tù, bà nghĩ đến việc phải rời đất nước. Nhạc sĩ Dương Thiệu Tước vì thường đau ốm nên không muốn đi. Bà Minh Trang cùng ba con đến Thái Lan vào cuối năm 1979, và đi định cư tại Virginia. Ở đây bà làm nghề "quality control" cho một hãng microfilm và ngay cả làm "baybysitter" trong một gia đình người Pháp.
Năm 1986, bà theo con về cư ngụ tại Quận Cam vì bà đã chán cái cảnh cào tuyết những ngày mùa đông ở Virginia, cũng là lúc bà bước vào tuổi hưu trí. Ở đây bà cảm thấy sức khỏe tốt hơn, và vui với các cháu ngoại ở quanh quẩn trong vùng, tuy bà vẫn còn hai người con trai ở xa, Bửu Minh tận Đức Quốc và Dương Hồng Phong ở New York.
Ngày nay bà Minh Trang sống trong một căn apartment dành cho người cao niên rất yên tĩnh. Thú vui của bà là nghe nhạc và nhất là bà rất chịu khó theo dõi tin tức thời sự. Bà tâm sự rằng ít khi bà nấu nướng, vì các con gái bà đều ở gần có bát canh cần nó cũng mang cho. Thỉnh thoảng các con ghé lại chở mẹ đi thăm người quen hoặc ghé qua chợ mua một vài thứ lặt vặt. Bà thích sống một mình như thế đã hơn sáu năm qua mà không cảm thấy cô đơn, vì các con rất gần gũi với bà. Trong lúc ngồi tiếp chuyện tôi, bà trả lời điện thoại của những người con gái gọi lại hai lần. Bà tâm sự, bây giờ con cái đều bận bịu công việc, khó có thể quanh quẩn bên mình, ở căn cư xá này rất tiện, mỗi khi có ốm đau hay cần chuyện cấp cứu bà chỉ kéo nhẹ đầu giây báo động, là có nhân viên y tế đến giúp ngay.
Trên bàn thờ nhỏ ở phòng khách là hình ảnh những người đã quá vãng, trên vách tường là những hình ảnh của của người sống. Đó là thế giới của bà, thế giới của hồi tưởng, của kỷ niệm hay thế giới ấm áp của con cháu đang vây quanh tuổi già của bà. Năm nay bà Minh Trang đã tới tuổi 84, trông bà hãy còn tráng kiện, tóc phơ phơ bạc, trí nhớ còn rất minh mẫn. Huế còn nhớ tới Minh Trang tên tuổi một thời, thính giả đài Pháp Á không quên tên người ca sĩ này, cái tên Minh Trang hình như gắn liền với âm điệu của một làn dân ca Huế, nỉ non và cũng ai oán trong "Đêm Tàn Bến Ngự" cũng như với cái tên Dương Thiệu Tước. Cuộc đời sinh ra bà để chúng ta có những tình khúc dịu dàng, thơm tho như một khu vườn Huế những đêm trăng, đó là "Ngọc Lan", là "Sóng Lòng"....
- tancogiaoduyen
- Site Admin
- Bài viết: 41705
- Ngày tham gia: Hai T4 12, 2004 5:00 pm
- Đến từ: U.S.A
- Tiếp xúc:
[align=center]Danh ca Minh Trang, định mệnh
và, những vòng nguyệt quế [/align]
Du Tử Lê
Khi những dàn đèn đã ở độ cao thích hợp nhất; khi ánh sáng đã được “cân đo” bằng máy; một lần nữa, trước khi hô khẽ “action,” người trẻ tuổi cất tiếng hỏi, lần chót, nhân vật trung tâm của những thước phim, chuyện “make-up.” Một lần nữa, người phụ nữ ngồi trên chiếc đôn mầu huyết dụ, dứt khoát:
“Không cần đâu. Bởi vì chẳng có cái đẹp nào, hơn được cái đẹp tự nhiên...”
Người trẻ tuổi đó, là Hân Nguyễn, “chủ nhân” của nhiều thước phim tư liệu quý giá về cuộc đời khá nhiều văn nghệ sĩ.
Người phụ nữ, trung tâm hay, linh hồn của bộ phim kia, là nữ danh ca Minh Trang.
Tên thật Nguyễn Thị Ngọc Trâm, nữ ca sĩ Minh Trang là cháu ngoại của Công Chúa Mỹ Lương (tục gọi Bà Chúa Nhất,) em ruột với Vua Thành Thái. Ngày 18 Tháng Tám tới đây, bà bước vào tuổi 90 (mà,) sự minh mẫn, sáng suốt của bà, khiến cho những người sắp bước vào tuổi 70 như tôi, phải mơ ước.
Nhưng điều đáng nói hơn, theo tôi, là định mệnh hay phần số, đã rất ư hào phóng, khi chọn bà, làm người nhận, cùng lúc, hai vòng nguyệt quế nghệ thuật, mang tính tiên phong, lịch sử. Ðó là:
- Minh Trang, giọng nữ, mở đường, thành danh, của dòng tân nhạc Việt, qua đài phát thanh Pháp Á, Saigòn, 1948.
- Minh Trang, người bạn đời của nhạc sĩ Dương Thiệu Tước. Ông (cũng là) một trong những nhạc sĩ tài hoa rất mực, đặt nền móng cho nền tân nhạc Việt, thời phôi thai. Những ca khúc bất tử của ông, cũng được định mệnh (gần như,) gắn liền hai tên tuổi Minh Trang-Dương Thiệu Tước. Thành một.
Chặng đường nghệ thuật trên nửa thế kỷ, đã lùi xa. Nhưng những thành tựu xây dựng trên những gian nan, dò dẫm, gập ghềnh, hôm nay, người ta vẫn có thể kể, một cách dễ dàng, những ngọc-khúc vượt, thoát trên lãng quên, của Dương Thiệu Tước. Như, Ngọc Lan; Bóng Chiều Xưa; Tiếng Xưa; Ðêm Tàn Bến Ngự; Chiều (phổ thơ Hồ Dzếnh;) Ơn nghĩa sinh thành; Thuyền mơ; Bến xuân xanh v.v... (1)
Bên cạnh đó, một câu hỏi được đặt ra, cho nữ ca sĩ Minh Trang là: Với thân thế thuộc dòng dõi danh gia vọng tộc như vậy, cách nào, người cháu ngoại của Bà Chúa Nhất, có thể “vượt tường lửa” thành kiến, để trở thành ca sĩ, ngay giai đoạn tân nhạc Việt Nam vừa mới dậy thì?
Từ căn phòng trên tầng hai, khu chung cư dành cho những người lớn tuổi, đường Ross, thành phố Santa Ana, ở miền Nam California, người bạn đời của nhạc sĩ Dương Thiệu Tước cho biết, tới giờ, bà cũng không biết âm nhạc đã chọn bà hay, bà đã chọn âm nhạc, như định mệnh đầu tiên của đời mình. Chỉ nhớ, ở những năm trung học, tại các trường Ðồng Khánh, rồi Quốc Học, Huế, bà đã cất tiếng hát, như một tặng phẩm trời, đất ban cho, trong những buổi sinh hoạt, lễ lạc của trường...
Ở thập niên 1930, những ca khúc mà nữ sinh Nguyễn Thị Ngọc Trâm làm ngây ngất thầy, cô, bạn học, dĩ nhiên là những bản nhạc Pháp - Thời điểm đó, chưa một ca khúc nào của dòng nhạc sau này, chúng ta gọi là “Nhạc tiền chiến” đến được với đám đông.
Năm 1942, sau khi tốt nghiệp tú tài toàn phần, người con gái của tổng đốc Bình Ðịnh, rồi Thanh Hóa, Nguyễn Hy (trước khi trở thành Thượng thư Bộ Hình,) kết hôn với giáo sư Ưng Quả - Nổi tiếng đất Thần kinh. Bà có với ông, hai người con. Người thứ nhất, Bửu Minh. Người thứ hai, Công Tằng Tôn Nữ Ðoan Trang. (2)
Năm 1948, bà đem hai con vào Saigòn, ứng thí và, trúng tuyển vai trò xướng ngôn viên Pháp ngữ của đài phát thanh Pháp Á.
Bà kể, công việc của bà là dịch những bản tin tiếng Pháp, sang tiếng Việt rồi, tự mình trình bày bản tin đó, trên làn sóng. Trong lúc dịch tin, thỉnh thoảng bà “nghêu ngao” một vài ca khúc Việt Nam, đang được ưa chuộng khi ấy, như “Tiếng Xưa” và, “Ðêm Tàn Bến Ngự” của Dương Thiệu Tước; “Giọt Mưa Thu” và “Con Thuyền Không Bến” của Ðặng Thế Phong... (3)
“Không ngờ sự nghêu ngao, hát vớ vẩn của tôi, được ông Hoàng Cao Tăng, Chủ sự phòng Văn Nghệ chú ý. Một hôm, ông ấy hỏi tôi, sao không thử hát cho đài? Tôi nói, tôi chỉ hát chơi thôi. Có biết gì nhiều đâu mà hát! Ông bảo, thì cứ thử. Một bài thôi cũng được. Nghe lời ông Tăng, tôi hát...”
Bài đầu tiên nữ danh ca Minh Trang chọn, gửi tới thính giả đài Pháp Á, là ca khúc “Giọt Mưa Thu” của Ðặng Thế Phong. (4)
Như con ngài, tới giờ thoát thai, hóa bướm, tiếng hát và, tên tuổi Minh Trang, một sớm, một chiều thành hiện tượng: Cơn bão lớn thổi ngược chiều đất nước.
Lập tức, dư luận hình thành thế đứng “chân vạc,” cân bằng ba miền: Minh Ðỗ (miền Bắc Minh Diệu (miền Trung;) và, Minh Trang (miền Nam.)
“Tam Minh” này, nghiễm nhiên trở thành “Tam công nương” của dòng tân nhạc Việt.
Cũng vì định mệnh đã nhậm lẹ, chọn người con gái cháu Bà Chúa Nhất, để trao vòng nguyệt quế thứ nhất kia, lại càng khiến nhiều người cất tiếng: “Minh Trang là ai?”
Ngay những “hoàng tử” của nền tân nhạc Việt Nam thời đó, (tập trung nhiều nhất ở đất Hà Thành,) như Ðoàn Chuẩn, Văn Cao, Dương Thiệu Tước, Thẩm Oánh, Dzoãn Mẫn, Nguyễn Văn Tý, Nguyễn Thiện Tơ... cũng xao xác hỏi nhau: “Ai là Minh Trang?”
Câu hỏi liên quan tới một tiếng hát, một người nữ, đã mang tính lây, lan mạnh mẽ của nhiều khát khao nhận diện cháy bỏng. Nó truyền nhiễm tới Thủ Hiến Bắc Việt, Nguyễn Hữu Trí. (5) Nó buộc ông Thủ Hiến phải dùng công văn chính thức, mời nữ ca sĩ Minh Trang, ra Hà Nội, trình diễn cho Hội Chợ Ðấu Xảo tổ chức mỗi năm một lần, tại Hà Nội. Một sinh hoạt mà, tầm cỡ của nó, vượt khỏi lằn ranh Bắc phần. Thành hội hoa đăng, tỏa sáng khắp Ðông Dương.
Tại Hội Chợ này, một lần nữa, “Công nương tân nhạc phương Nam,” lại cất tiếng:
“Ngoài hiên giọt mưa thu thánh thót rơi
Trời lắng u buồn mây hắt hiu ngừng trôi
Nghe gió thoảng mơ hồ trong mưa thu
Ai khóc ai than hờ!
(...)
Hồn thu tới nơi đây gieo buồn lây
Lòng lắng muôn bề không liếp che gió về
Ai nức nở thương đời chân buông mau
Dương thế bao la sầu...”
Tôi không biết, có phải tiếng hát, nhan sắc, ca từ... (hay tất cả những nhân tố này) đã khiến nhiều chúng anh hùng đất Thăng Long choáng váng? Những hảo hán với võ công âm nhạc thượng thừa, đã được ấn chứng, quên mình, bề gì, cũng là các trưởng môn chánh phái. Họ bỗng, hồn nhiên. Vụng dại? Họ bỗng, thanh niên. Mới lớn...? “Ồn ào” ra mắt “công nương tân nhạc phương Nam”.
Tôi không hiểu, có phải, vì biết công chúa tự tỉnh dậy trong cánh rừng tân nhạc, không do một hoàng tử nào lay động, nên nhiều “hoàng tử” Hà Thành, đã “hiển lộng võ công,” sáng tác những ca khúc mới? Quà tặng công nương? Hy vọng, được nàng “chấm đậu”?
Tôi cũng không biết, ca khúc “Tà áo văn quân” của Phạm Duy Nhượng, với những ca từ như:
“Ta gửi về người ôi mấy cung đàn Tư Mã xưa
Yêu đôi mắt huyền. Xinh như dáng thuyền
Ai nhẹ lay màn the thấp thoáng
Nàng nhẹ đôi gót hài. Dừng bên mái ngoài
Văng vẳng tiếng ai cười. Như mộng đời xa xôi...”
Ðược ông sáng tác thời gian nào? Có liên hệ gần, xa gì, tới sự xuất hiện của “nàng ‘Minh’ miền Nam” hay không?
Nhưng, hiển nhiên, bằng võ công im lặng. Từ xa. Thỉnh thoảng mới kín đáo gửi đi dăm ba nụ cười ngụ ý (như một thứ chưởng lực cực kỳ... âm nhu,) cuối cùng, nhạc sĩ Dương Thiệu Tước được “công nương phương Nam” chấm đậu.
Ðúng sáu mươi năm sau, nơi quê người, ở tuổi chín mươi, bà kể:
“Mặc cho các bạn Thẩm Oánh, Nguyễn Thiện Tơ, Dzoãn Mẫn lăng xăng. Líu lo. Rối rít... Ông ấy (nhạc sĩ Dương Thiệu Tước) im lặng từ đầu đến cuối. Chỉ nhìn thôi. Lâu lâu, mới mỉm cười. Sự xa cách, lặng lẽ này khiến tôi càng thêm chú ý. Vì, trước khi gặp, tôi đã có dịp hát nhạc của ông ấy rồi mà. Tôi cũng mong có cơ hội được gặp người nổi tiếng như ông ấy chứ...”
Hạnh ngộ giữa đôi trai tài, gái sắc hay, vòng nguyệt quế thứ hai, đã được định mệnh trao tay, từ đó.
Bà nói, dù ưng lắm. Ưng lắm đấy, nhưng:
“Mình là phụ nữ, nhất là phụ nữ thời đó, mình vẫn phải giữ gìn. Mình không thể là người tỏ tình trước được...”
Người nữ danh ca thời đầu, của dòng tân nhạc Việt Nam nhấn mạnh.
Du Tử Lê
Chú thích:
(1) Theo web-site “Nhạc tình Tuyển tập” thì, nhạc sĩ Dương Thiệu Tước, sinh ngày 15 Tháng Năm năm 1915 tại làng Vân Ðình, huyện Sơn Lãng, tỉnh Hà Ðông. Ông là cháu nội của ông Nghè Dương Khuê. Trong giai đoạn phôi thai của nền tân nhạc Việt, ông là người đưa ra sáng kiến viết nhạc kiểu “lời Tây theo điệu ta.” Một thời gian sau, ông mới chuyển qua viết “Nhạc Việt, lời Việt.” Những nhạc phẩm kể trên, của Dương Thiệu Tước, không liệt kê theo thứ tự thời gian sáng tác của tác giả.
(2) Minh-Trang là tên được ghép lại từ hai người con này, của bà. Sự việc ấy, vô tình đưa tới ghi nhận: Tên của cả 3 nữ danh ca đầu tiên trong dòng tân nhạc Việt, tiền bán thế kỷ thứ 20, đều bắt đầu bằng chữ “Minh.” Và, Công Tằng Tôn Nữ Ðoan Trang, chính là nữ ca sĩ Quỳnh Giao, sau này. Cô hiện là giáo sư âm nhạc tại quận hạt Orange County, Nam California.
(3) Ca khúc “Tiếng xưa” được tác giả sáng tác năm 1940, “Ðêm tàn Bến Ngự,” năm 1946. “Giọt mưa thu” được họ Ðặng sáng tác năm 1939; người viết lời là Bùi Công Kỳ. Ngoài hai ca khúc vừa kể, nhạc sĩ Ðặng Thế Phong còn có bài “Ðêm thu,” với những câu mở đầu như “vườn khuya trăng chiếu / hoa đứng im như mắc buồn / lòng ta xao xuyến / lắng nghe lời hoa / cánh hoa vương buồn trong gió / áng hương yêu nhẹ nhàng say, gió lay...” Cũng được lưu truyền tới ngày hôm nay. Theo tài liệu của trang mạng Ðặc Trưng, thì, nhạc sĩ Ðặng Thế Phong sinh năm 1918, tại Nam Ðịnh. Ông mất sớm, khi mới 24 tuổi, vì bệnh lao. Sáng tác ông để lại cho đời, rất ít. Nhưng bài nào cũng được nhiều thế hệ yêu thích.
(4) Ðể cụ thể lòng trân quý tiếng hát Minh Trang, đài phát thanh Pháp Á, Saigòn, đã trả tiền “casher” cho bà, ngay từ bài hát thứ nhất; không kể tiền lương phóng viên hàng tháng.
(5) Ðược biết, thời đó, người Pháp chia Việt Nam thành 3 phần. Trừ miền Nam họ cho hưởng quy chế “tự trị;” hai miền còn lại là Bắc và Trung, phải chịu quy chế “bảo hộ.” Cùng thời với Thủ Hiến Nguyễn Hữu Trí, ở miền Bắc, Thủ Hiến Trung phần là ông Phan Văn Giáo.
và, những vòng nguyệt quế [/align]
Du Tử Lê
Khi những dàn đèn đã ở độ cao thích hợp nhất; khi ánh sáng đã được “cân đo” bằng máy; một lần nữa, trước khi hô khẽ “action,” người trẻ tuổi cất tiếng hỏi, lần chót, nhân vật trung tâm của những thước phim, chuyện “make-up.” Một lần nữa, người phụ nữ ngồi trên chiếc đôn mầu huyết dụ, dứt khoát:
“Không cần đâu. Bởi vì chẳng có cái đẹp nào, hơn được cái đẹp tự nhiên...”
Người trẻ tuổi đó, là Hân Nguyễn, “chủ nhân” của nhiều thước phim tư liệu quý giá về cuộc đời khá nhiều văn nghệ sĩ.
Người phụ nữ, trung tâm hay, linh hồn của bộ phim kia, là nữ danh ca Minh Trang.
Tên thật Nguyễn Thị Ngọc Trâm, nữ ca sĩ Minh Trang là cháu ngoại của Công Chúa Mỹ Lương (tục gọi Bà Chúa Nhất,) em ruột với Vua Thành Thái. Ngày 18 Tháng Tám tới đây, bà bước vào tuổi 90 (mà,) sự minh mẫn, sáng suốt của bà, khiến cho những người sắp bước vào tuổi 70 như tôi, phải mơ ước.
Nhưng điều đáng nói hơn, theo tôi, là định mệnh hay phần số, đã rất ư hào phóng, khi chọn bà, làm người nhận, cùng lúc, hai vòng nguyệt quế nghệ thuật, mang tính tiên phong, lịch sử. Ðó là:
- Minh Trang, giọng nữ, mở đường, thành danh, của dòng tân nhạc Việt, qua đài phát thanh Pháp Á, Saigòn, 1948.
- Minh Trang, người bạn đời của nhạc sĩ Dương Thiệu Tước. Ông (cũng là) một trong những nhạc sĩ tài hoa rất mực, đặt nền móng cho nền tân nhạc Việt, thời phôi thai. Những ca khúc bất tử của ông, cũng được định mệnh (gần như,) gắn liền hai tên tuổi Minh Trang-Dương Thiệu Tước. Thành một.
Chặng đường nghệ thuật trên nửa thế kỷ, đã lùi xa. Nhưng những thành tựu xây dựng trên những gian nan, dò dẫm, gập ghềnh, hôm nay, người ta vẫn có thể kể, một cách dễ dàng, những ngọc-khúc vượt, thoát trên lãng quên, của Dương Thiệu Tước. Như, Ngọc Lan; Bóng Chiều Xưa; Tiếng Xưa; Ðêm Tàn Bến Ngự; Chiều (phổ thơ Hồ Dzếnh;) Ơn nghĩa sinh thành; Thuyền mơ; Bến xuân xanh v.v... (1)
Bên cạnh đó, một câu hỏi được đặt ra, cho nữ ca sĩ Minh Trang là: Với thân thế thuộc dòng dõi danh gia vọng tộc như vậy, cách nào, người cháu ngoại của Bà Chúa Nhất, có thể “vượt tường lửa” thành kiến, để trở thành ca sĩ, ngay giai đoạn tân nhạc Việt Nam vừa mới dậy thì?
Từ căn phòng trên tầng hai, khu chung cư dành cho những người lớn tuổi, đường Ross, thành phố Santa Ana, ở miền Nam California, người bạn đời của nhạc sĩ Dương Thiệu Tước cho biết, tới giờ, bà cũng không biết âm nhạc đã chọn bà hay, bà đã chọn âm nhạc, như định mệnh đầu tiên của đời mình. Chỉ nhớ, ở những năm trung học, tại các trường Ðồng Khánh, rồi Quốc Học, Huế, bà đã cất tiếng hát, như một tặng phẩm trời, đất ban cho, trong những buổi sinh hoạt, lễ lạc của trường...
Ở thập niên 1930, những ca khúc mà nữ sinh Nguyễn Thị Ngọc Trâm làm ngây ngất thầy, cô, bạn học, dĩ nhiên là những bản nhạc Pháp - Thời điểm đó, chưa một ca khúc nào của dòng nhạc sau này, chúng ta gọi là “Nhạc tiền chiến” đến được với đám đông.
Năm 1942, sau khi tốt nghiệp tú tài toàn phần, người con gái của tổng đốc Bình Ðịnh, rồi Thanh Hóa, Nguyễn Hy (trước khi trở thành Thượng thư Bộ Hình,) kết hôn với giáo sư Ưng Quả - Nổi tiếng đất Thần kinh. Bà có với ông, hai người con. Người thứ nhất, Bửu Minh. Người thứ hai, Công Tằng Tôn Nữ Ðoan Trang. (2)
Năm 1948, bà đem hai con vào Saigòn, ứng thí và, trúng tuyển vai trò xướng ngôn viên Pháp ngữ của đài phát thanh Pháp Á.
Bà kể, công việc của bà là dịch những bản tin tiếng Pháp, sang tiếng Việt rồi, tự mình trình bày bản tin đó, trên làn sóng. Trong lúc dịch tin, thỉnh thoảng bà “nghêu ngao” một vài ca khúc Việt Nam, đang được ưa chuộng khi ấy, như “Tiếng Xưa” và, “Ðêm Tàn Bến Ngự” của Dương Thiệu Tước; “Giọt Mưa Thu” và “Con Thuyền Không Bến” của Ðặng Thế Phong... (3)
“Không ngờ sự nghêu ngao, hát vớ vẩn của tôi, được ông Hoàng Cao Tăng, Chủ sự phòng Văn Nghệ chú ý. Một hôm, ông ấy hỏi tôi, sao không thử hát cho đài? Tôi nói, tôi chỉ hát chơi thôi. Có biết gì nhiều đâu mà hát! Ông bảo, thì cứ thử. Một bài thôi cũng được. Nghe lời ông Tăng, tôi hát...”
Bài đầu tiên nữ danh ca Minh Trang chọn, gửi tới thính giả đài Pháp Á, là ca khúc “Giọt Mưa Thu” của Ðặng Thế Phong. (4)
Như con ngài, tới giờ thoát thai, hóa bướm, tiếng hát và, tên tuổi Minh Trang, một sớm, một chiều thành hiện tượng: Cơn bão lớn thổi ngược chiều đất nước.
Lập tức, dư luận hình thành thế đứng “chân vạc,” cân bằng ba miền: Minh Ðỗ (miền Bắc Minh Diệu (miền Trung;) và, Minh Trang (miền Nam.)
“Tam Minh” này, nghiễm nhiên trở thành “Tam công nương” của dòng tân nhạc Việt.
Cũng vì định mệnh đã nhậm lẹ, chọn người con gái cháu Bà Chúa Nhất, để trao vòng nguyệt quế thứ nhất kia, lại càng khiến nhiều người cất tiếng: “Minh Trang là ai?”
Ngay những “hoàng tử” của nền tân nhạc Việt Nam thời đó, (tập trung nhiều nhất ở đất Hà Thành,) như Ðoàn Chuẩn, Văn Cao, Dương Thiệu Tước, Thẩm Oánh, Dzoãn Mẫn, Nguyễn Văn Tý, Nguyễn Thiện Tơ... cũng xao xác hỏi nhau: “Ai là Minh Trang?”
Câu hỏi liên quan tới một tiếng hát, một người nữ, đã mang tính lây, lan mạnh mẽ của nhiều khát khao nhận diện cháy bỏng. Nó truyền nhiễm tới Thủ Hiến Bắc Việt, Nguyễn Hữu Trí. (5) Nó buộc ông Thủ Hiến phải dùng công văn chính thức, mời nữ ca sĩ Minh Trang, ra Hà Nội, trình diễn cho Hội Chợ Ðấu Xảo tổ chức mỗi năm một lần, tại Hà Nội. Một sinh hoạt mà, tầm cỡ của nó, vượt khỏi lằn ranh Bắc phần. Thành hội hoa đăng, tỏa sáng khắp Ðông Dương.
Tại Hội Chợ này, một lần nữa, “Công nương tân nhạc phương Nam,” lại cất tiếng:
“Ngoài hiên giọt mưa thu thánh thót rơi
Trời lắng u buồn mây hắt hiu ngừng trôi
Nghe gió thoảng mơ hồ trong mưa thu
Ai khóc ai than hờ!
(...)
Hồn thu tới nơi đây gieo buồn lây
Lòng lắng muôn bề không liếp che gió về
Ai nức nở thương đời chân buông mau
Dương thế bao la sầu...”
Tôi không biết, có phải tiếng hát, nhan sắc, ca từ... (hay tất cả những nhân tố này) đã khiến nhiều chúng anh hùng đất Thăng Long choáng váng? Những hảo hán với võ công âm nhạc thượng thừa, đã được ấn chứng, quên mình, bề gì, cũng là các trưởng môn chánh phái. Họ bỗng, hồn nhiên. Vụng dại? Họ bỗng, thanh niên. Mới lớn...? “Ồn ào” ra mắt “công nương tân nhạc phương Nam”.
Tôi không hiểu, có phải, vì biết công chúa tự tỉnh dậy trong cánh rừng tân nhạc, không do một hoàng tử nào lay động, nên nhiều “hoàng tử” Hà Thành, đã “hiển lộng võ công,” sáng tác những ca khúc mới? Quà tặng công nương? Hy vọng, được nàng “chấm đậu”?
Tôi cũng không biết, ca khúc “Tà áo văn quân” của Phạm Duy Nhượng, với những ca từ như:
“Ta gửi về người ôi mấy cung đàn Tư Mã xưa
Yêu đôi mắt huyền. Xinh như dáng thuyền
Ai nhẹ lay màn the thấp thoáng
Nàng nhẹ đôi gót hài. Dừng bên mái ngoài
Văng vẳng tiếng ai cười. Như mộng đời xa xôi...”
Ðược ông sáng tác thời gian nào? Có liên hệ gần, xa gì, tới sự xuất hiện của “nàng ‘Minh’ miền Nam” hay không?
Nhưng, hiển nhiên, bằng võ công im lặng. Từ xa. Thỉnh thoảng mới kín đáo gửi đi dăm ba nụ cười ngụ ý (như một thứ chưởng lực cực kỳ... âm nhu,) cuối cùng, nhạc sĩ Dương Thiệu Tước được “công nương phương Nam” chấm đậu.
Ðúng sáu mươi năm sau, nơi quê người, ở tuổi chín mươi, bà kể:
“Mặc cho các bạn Thẩm Oánh, Nguyễn Thiện Tơ, Dzoãn Mẫn lăng xăng. Líu lo. Rối rít... Ông ấy (nhạc sĩ Dương Thiệu Tước) im lặng từ đầu đến cuối. Chỉ nhìn thôi. Lâu lâu, mới mỉm cười. Sự xa cách, lặng lẽ này khiến tôi càng thêm chú ý. Vì, trước khi gặp, tôi đã có dịp hát nhạc của ông ấy rồi mà. Tôi cũng mong có cơ hội được gặp người nổi tiếng như ông ấy chứ...”
Hạnh ngộ giữa đôi trai tài, gái sắc hay, vòng nguyệt quế thứ hai, đã được định mệnh trao tay, từ đó.
Bà nói, dù ưng lắm. Ưng lắm đấy, nhưng:
“Mình là phụ nữ, nhất là phụ nữ thời đó, mình vẫn phải giữ gìn. Mình không thể là người tỏ tình trước được...”
Người nữ danh ca thời đầu, của dòng tân nhạc Việt Nam nhấn mạnh.
Du Tử Lê
Chú thích:
(1) Theo web-site “Nhạc tình Tuyển tập” thì, nhạc sĩ Dương Thiệu Tước, sinh ngày 15 Tháng Năm năm 1915 tại làng Vân Ðình, huyện Sơn Lãng, tỉnh Hà Ðông. Ông là cháu nội của ông Nghè Dương Khuê. Trong giai đoạn phôi thai của nền tân nhạc Việt, ông là người đưa ra sáng kiến viết nhạc kiểu “lời Tây theo điệu ta.” Một thời gian sau, ông mới chuyển qua viết “Nhạc Việt, lời Việt.” Những nhạc phẩm kể trên, của Dương Thiệu Tước, không liệt kê theo thứ tự thời gian sáng tác của tác giả.
(2) Minh-Trang là tên được ghép lại từ hai người con này, của bà. Sự việc ấy, vô tình đưa tới ghi nhận: Tên của cả 3 nữ danh ca đầu tiên trong dòng tân nhạc Việt, tiền bán thế kỷ thứ 20, đều bắt đầu bằng chữ “Minh.” Và, Công Tằng Tôn Nữ Ðoan Trang, chính là nữ ca sĩ Quỳnh Giao, sau này. Cô hiện là giáo sư âm nhạc tại quận hạt Orange County, Nam California.
(3) Ca khúc “Tiếng xưa” được tác giả sáng tác năm 1940, “Ðêm tàn Bến Ngự,” năm 1946. “Giọt mưa thu” được họ Ðặng sáng tác năm 1939; người viết lời là Bùi Công Kỳ. Ngoài hai ca khúc vừa kể, nhạc sĩ Ðặng Thế Phong còn có bài “Ðêm thu,” với những câu mở đầu như “vườn khuya trăng chiếu / hoa đứng im như mắc buồn / lòng ta xao xuyến / lắng nghe lời hoa / cánh hoa vương buồn trong gió / áng hương yêu nhẹ nhàng say, gió lay...” Cũng được lưu truyền tới ngày hôm nay. Theo tài liệu của trang mạng Ðặc Trưng, thì, nhạc sĩ Ðặng Thế Phong sinh năm 1918, tại Nam Ðịnh. Ông mất sớm, khi mới 24 tuổi, vì bệnh lao. Sáng tác ông để lại cho đời, rất ít. Nhưng bài nào cũng được nhiều thế hệ yêu thích.
(4) Ðể cụ thể lòng trân quý tiếng hát Minh Trang, đài phát thanh Pháp Á, Saigòn, đã trả tiền “casher” cho bà, ngay từ bài hát thứ nhất; không kể tiền lương phóng viên hàng tháng.
(5) Ðược biết, thời đó, người Pháp chia Việt Nam thành 3 phần. Trừ miền Nam họ cho hưởng quy chế “tự trị;” hai miền còn lại là Bắc và Trung, phải chịu quy chế “bảo hộ.” Cùng thời với Thủ Hiến Nguyễn Hữu Trí, ở miền Bắc, Thủ Hiến Trung phần là ông Phan Văn Giáo.
- tancogiaoduyen
- Site Admin
- Bài viết: 41705
- Ngày tham gia: Hai T4 12, 2004 5:00 pm
- Đến từ: U.S.A
- Tiếp xúc:
-
- Thành viên tích cực
- Bài viết: 8407
- Ngày tham gia: Ba T6 16, 2009 10:05 am
- khonvongco
- Thành viên thường xuyên
- Bài viết: 2169
- Ngày tham gia: Năm T5 25, 2006 5:00 pm
- Đến từ: Kiệu Kim Sơn